Bài viết chuyên đề

Một số quy trình hoạt động của địa chỉ IPv6 (Chuyên Đề Đào Tạo IPv6 – Phần 11)

25/03/2019 03:19:50

Một số quy trình hoạt động của địa chỉ IPv6 (Chuyên Đề Đào Tạo IPv6 – Phần 11)

1. Phân giải địa chỉ (Address Resolution)

 

Trong địa chỉ IPv4, quy trình này được đảm nhiệm bởi thủ tục ARP. Node cần phân giải địa chỉ sẽ gửi gói tin truy vấn tới địa chỉ đích là địa chỉ broadcast, tác động đến mọi node khác trên đường link.

Trong địa chỉ của IPv6, đây là một trong số những quy trình thủ tục Neighbor Discovery đảm nhiệm. Để phục vụ cho việc phân giải tương ứng địa chỉ lớp mạng và địa chỉ vật lý, các node IPv6 đều duy trì một bảng cache thông tin về các node lân cận gọi là "neighbor cache". Trong HĐH window, chúng ta có thể xem thông tin trong bảng này với lệnh netsh>interface ipv6>show neighbors.

Khi một IPv6 node cần tìm địa chỉ lớp link-layer (ví dụ địa chỉ MAC trên đường link Ethernet) tương ứng với một địa chỉ unicast IPv6 nào đó, thay vì gửi gói tin truy vấn tới địa chỉ multicast mọi node phạm vi link (FF02::1) để tác động tới mọi node trên đường link tương đương địa chỉ broadcast trong IPv4, node đó chỉ gửi tới địa chỉ Multicast Solicited Node tương ứng địa chỉ unicast cần phân giải.

Như chúng ta cũng biết, một node IPv6, khi được gắn một địa chỉ unicast, ngoài việc lắng nghe lưu lượng tại địa chỉ unicast đó, node IPv6 sẽ lập tức nghe và nhận lưu lượng của một dạng địa chỉ multicast tương ứng là Multicast Solicited Node tương ứng địa chỉ unicast này.

Như vậy, trong quá trình phân giải địa chỉ của IPv6, chỉ những node đang nghe lưu lượng tại địa chỉ Multicast Solicited Node phù hợp mới nhận và xử lý gói tin. Điều này giảm thiểu việc tác động đến mọi node trên đường link, tăng hiệu quả hoạt động.

Để thực hiện quy trình phân giải địa chỉ, hai node IPv6 trong một đường link trao đổi thông điệp Neighbor Solicitation và Neighbor Advertisement.

Khi một node cần phân giải địa chỉ, nó gửi đi trên đường link thông điệp Neighbor Solicitation:

  • Địa chỉ nguồn: Địa chỉ IPv6 của giao diện gửi gói tin.
  • Địa chỉ đích: địa chỉ IPv6 Multicast Solicited Node tương ứng địa chỉ unicast cần phân giải địa chỉ
  • Thông tin chứa trong phần dữ liệu có chứa địa chỉ lớp link-layer của nơi gửi (trong Option Source Link-Layer Address).

Trên đường link, node đang nghe lưu lượng tại địa chỉ Multicast Solicited Node trùng với địa chỉ đích của gói tin sẽ nhận được thông tin. Nó thực hiện những hành động sau:

  • Cập nhật địa chỉ lớp link-layer (địa chỉ MAC trong trường hợp kết nối Ethernet) của nơi gửi vào bảng neighbor cache.
  • Gửi thông điệp Neighbor Advertisement đáp trả tới địa chỉ đích là địa chỉ nguồn đã gửi gói tin, thông tin trong phần dữ liệu có địa chỉ lớp link-layer của nó (chứa trong Option Target Link-Layer Address).

Khi nhận được thông điệp Neighbor Advertisement, node cần phân giải địa chỉ sẽ sử dụng thông tin trong đó để thực hiện liên lạc đồng thời cập nhật thông tin vào bảng neighbor cache của mình.

2. Kiểm tra trùng lặp địa chỉ (Duplicate Address Detection - DAD)

 

Tự động cấu hình địa chỉ là một trong những đặc tính nổi bật của thế hệ địa chỉ IPv6. Đặc tính này có được nhờ việc node IPv6 có khả năng tự cấu hình 64 bít định danh giao diện (Interface ID) từ địa chỉ của card mạng, hoặc nhận ID là một con số ngẫu nhiên. Do 64 bít định danh giao diện có thể là con số ngẫu nhiên, hoàn toàn có khả năng trên đường kết nối, địa chỉ IPv6 node dự định sử dụng đã được một node khác sử dụng rồi. Do vậy chúng cần một quy trình để kiểm tra sự trùng lặp địa chỉ trong đường link. Đó là quy trình DAD.

DAD cũng sử dụng hai thông điệp ICMPv6 Neighbor Solicitation và Neighbor Advertisement. Tuy nhiên một số thông tin của gói tin này khác với gói tin sử dụng trong quá trình phân giải địa chỉ.

Khi một node cần kiểm tra trùng lặp địa chỉ, nó gửi gói tin Neighbor Solicitation

  • Địa chỉ IPv6 nguồn: Là địa chỉ unspecified "::". Điều này dễ hiểu, địa chỉ dự định được gắn cho giao diện sẽ chưa thể được sử dụng chừng nào chưa kiểm tra là không có sự trùng lặp.
  • Gói tin Neighbor Solicitation sẽ chứa địa chỉ IPv6 đang được kiểm tra trùng lặp.

Sau khi gửi NS, node sẽ đợi. Nếu không có phản hồi, có nghĩa địa chỉ này chưa được sử dụng. Nếu địa chỉ này đã được một node nào đó sử dụng rồi, node này sẽ gửi thông điệp Neighbor Advertisement đáp trả:

  • Địa chỉ nguồn: Địa chỉ IPv6 node giao diện gửi gói tin
  • Địa chỉ đích: Địa chỉ IPv6 multicast mọi node phạm vi link (FF02::1)
  • Gói tin sẽ chứa địa chỉ bị trùng lặp

Nếu node đang kiểm tra địa chỉ trùng lặp nhận được thông điệp RA phản hồi lại RS mình đã gửi, nó sẽ hủy bỏ việc sử dụng địa chỉ này.

3. Kiểm tra tính có thể đạt tới của node lân cận (Neighbor Unreachability Detection)

 

Thông điệp Neighbor Solicitation và Neighbor Advertisement được sử dụng trong quá trình phân giải địa chỉ, kiểm tra trùng lặp địa chỉ, cũng được sử dụng cho những mục đích khác, như quá trình kiểm tra tính có thể đạt tới của một node lân cận (reachability). Các IPv6 node duy trì bảng thông tin về các neighbor của mình gọi là neighbor cache, và sẽ cập nhật bảng này khi có sự thay đổi tình trạng mạng. Bảng này lưu thông tin đối với cả router và host.

Biết được node lân cận có thể đạt tới hay không rất quan trọng đối với một node vì nó sẽ điều chỉnh cách thức cư xử của mình theo kết quả nhận được. Ví dụ nếu biết một node lân cận không đạt tới được, host sẽ ngừng gửi gói tin, biết một router đang không thể đạt tới được, host có thể thực hiện quy trình tìm kiếm một router khác.

Nếu một host muốn kiểm tra tình trạng có thể nhận gói tin của node lân cận, nó gửi thông điệp Neighbor Solicitation, Nếu nhận được Neighbor Advertisement phúc đáp, nó biết tình trạng của node lân cận là đạt tới được (reachable) và cập nhật bảng neighbor cache tương ứng. Tất nhiên tình trạng này chỉ được coi là tạm thời và có một khoảng thời gian dành cho nó, trước khi node cần thực hiện kiểm tra lại trạng thái neighbor. Khoảng thời gian quy định này, cũng như một số các tham số hoạt động khác host sẽ nhận được từ thông tin quảng bá Router trên đường kết nối.

4. Router Discovery

Đối với hoạt động của địa chỉ IPv6, sự trao đổi giữa các host với nhau, giữa host với router là rất quan trọng. Trong mạng, router là thiết bị đảm nhiệm việc chuyển tiếp lưu lượng của các host từ mạng này sang mạng khác. Một host phải nhờ vào router để có thể gửi thông tin tới những node nằm ngoài đường kết nối của mình. Do vậy, trước khi một host có thể thực hiện các hoạt động giao tiếp với mạng bên ngoài, nó cần tìm một router và học được những thông tin quan trọng về router, cũng như về mạng. Trong thế hệ địa chỉ IPv6, để có thể cấu hình địa chỉ, cũng như có những thông số cho hoạt động, IPv6 host cần tìm thấy router và nhận được những thông tin từ router trên đường kết nối. Router IPv6 ngoài việc đảm trách chuyển tiếp gói tin cho host còn đảm nhiệm một hoạt động không thể thiếu là quảng bá sự hiện diện của mình và cung cấp các tham số trợ giúp host trên đường kết nối cấu hình địa chỉ và các tham số hoạt động. Thực hiện những hoạt động trao đổi thông tin giữa host và router là một nhiệm vụ rất quan trọng của thủ tục Neighbor Discovery. 

Quá trình tìm kiếm, trao đổi giữa host và router thực hiện dựa trên hai dạng thông điệp sau:

  • Router Solicitation được gửi bởi host tới các router trên đường link. Do vậy, gói tin được gửi tới địa chỉ đích multicast mọi router phạm vi link (FF02::2). Host gửi thông điệp này để yêu cầu router quảng bá ngay các thông tin nó cần cho hoạt động ví dụ khi host chưa được gắn địa chỉ, chưa có các tham số mặc định cần thiết để xử lý gói tin…
  • Router Advertisement chỉ được gửi bởi các router để quảng bá sự hiện diện của router và các tham số cần thiết khác cho hoạt động của các host. Router gửi định kỳ thông điệp này trên đường kết nối và gửi thông điệp này bất cứ khi nào nhận được Router Solicitation từ các host trong đường kết nối.

Router Discovery là quá trình trao đổi giữa router và host trên một đường link, trong đó: 

  • Router :
    • Quảng bá gói tin Router Advertisement: Nhiệm vụ cơ bản một IPv6 router thực hiện trong ND là gửi định kỳ gói tin Router Advertisement quảng bá sự hiện diện của nó trên đường kết nối và các thông số khác. Khoảng thời gian cách giữa hai thông điệp được cấu hình trên router. RA cũng được gửi khi có bất cứ tình huống đặc biệt nào xảy ra, ví dụ khi thông tin quan trọng nào đó của router thay đổi như địa chỉ của nó.
    • Duy trì những thông số cơ bản cho mạng: Router cũng đảm nhiệm việc duy trì những thông số cơ bản phục vụ cho hoạt động mạng. Những thông số này sẽ được thông báo nhờ các trường trong RA.
    • Nhận và xử lý thông điệp Router Solicitation. Router sẽ lắng nghe thông điệp này của các host và nếu nhận được gói tin này, nó sẽ lập tức gửi RA phúc đáp. 
  • Host nhận và xử lý gói tin Router Advertisement: Host sẽ lắng nghe nhận các thông điệp RA, khi nhận được thông điệp này, nó sẽ:
    • Xác lập những giá trị thông số hoạt động theo những giá trị được gửi trong các trường của RA. Bao gồm cả việc duy trì và cập nhật một số dữ liệu như danh sách prefix địa chỉ, router mặc định.
    • Nếu host mới khởi động và chưa được gắn địa chỉ, nó sẽ theo những thông tin hướng dẫn trong RA để tự động cấu hình thông tin cho chính nó: địa chỉ IP, các tham số khác.
    • Tạo gói tin Router Solicitation: Trong những trường hợp nhất định, host sẽ tạo gói tin RS và gửi đi trên đường link để có thể nhận ngay RA phúc đáp mà không đợi theo định kỳ.

 Nhờ quá trình trao đổi như trên, những thông tin sau liên quan đến đường kết nối được thiết lập:

  • Router mặc định cho các host trên đường link. Trong thông điệp RA có trường Router Lifetime, giá trị của nó xác định thời gian router gửi RA có thể được coi là router mặc định. Tuy nhiên, nếu còn thời gian hợp lệ mà host nhận thấy router không liên lạc được (qua quy trình Neighbor Unreachability Detection), nó sẽ không sử dụng router làm router mặc định nữa.
  • Host có thông tin để quyết định mình cần sử dụng cách thức cấu hình có trạng thái (stateful) hay không trạng thái (stateless) khi tự động cấu hình địa chỉ. Trong RA của router có thông tin chỉ dẫn cho host phương thức nhận thông tin cấu hình địa chỉ.
  • Một số tham số mặc định trên đường link, cho hoạt động của host:
    • Giá trị mặc định của Hop Limit trong các gói tin IPv6 header
    • Thời gian host thực hiện lại kiểm tra tính có thể kết nối được của các node lân cận và gửi lại thông điệp Neighbor Solicitation
    • Giá trị MTU mặc định của đường kết nối
    • Danh sách các prefix của đường link. Mỗi prefix sẽ gồm có cả thông tin thời gian hợp lệ và thời gian ưu tiên của prefix (valid lifetime, prefer lifetime). Prefix này khi host nhận được sẽ sử dụng, gắn với định danh giao diện đã tự động tạo ra để tạo nên địa chỉ toàn cầu của host.

 5. Cấu hình tự động địa chỉ cho IPv6 node

 

Khi nối một máy tính vào mạng IPv4, chúng ta đã rất quen thuộc với các thao tác cấu hình địa chỉ, subnet mask, default gateway, máy chủ tên miền cho máy tính để kết nối mạng.

Địa chỉ IPv6 được cải tiến để có thể giảm thiểu những cấu hình nhân công. 64 bít cuối của địa chỉ IPv6 luôn dành để định danh giao diện. 64 bít định danh này có thể tự động cấu hình từ địa chỉ card mạng hoặc gán một cách tự động. Nhờ quy trình giao tiếp trên đường link của thủ tục Neighbor Discovery, IPv6 host có thể liên lạc với router trên đường kết nối để nhận các thông tin về prefix trên link và những tham số hoạt động khác. Do vậy, các node trong IPv6 có hai cách thức cấu hình địa chỉ: cấu hình địa chỉ bằng tay (quá trình cấu hình địa chỉ cho giao diện, tạo route… được thực hiện qua các lệnh cấu hình bằng tay), hoặc cấu hình địa chỉ tự động.

IPv6 node có hai cách thức cấu hình tự động địa chỉ cho giao diện. Một đường kết nối IPv6 có thể sử dụng một trong hai cách thức. Router trên đường link, qua quảng bá thông điệp Router Advertisement, sẽ hướng dẫn cho các host biết hiện tại đường kết nối đang sử dụng cách thức cấu hình địa chỉ nào.

  • Tự động cấu hình có trạng thái (stateful): Đây là cách thức cấu hình địa chỉ cho host dựa vào sự trợ giúp của DHCPv6 server. Cách thức cấu hình này tương tự như việc sử dụng DHCP của IPv4. Hiện nay, các rfc dành cho DHCPv6 đã được IETF hoàn thiện đầy đủ. Máy chủ DHCPv6 sẽ cung cấp cho host địa chỉ và các thông tin để host cấu hình, nên được gọi là cấu hình có trạng thái (stateful)
  • Tự động cấu hình không trạng thái (stateless): Đây là cách thức tự động trong đó, một host sẽ tự thực hiện cấu hình địa chỉ cho giao diện không cần sự hỗ trợ của bất kỳ một máy chủ DHCP nào. Host thực hiện cấu hình địa chỉ từ khi chưa có một thông tin nào hỗ trợ cấu hình (stateless) và qua trao đổi với router IPv6 trên đường kết nối.

Tự động cấu hình địa chỉ không trạng thái (Stateless Autoconfiguration):

Node có khả năng tự động cấu hình, không cần sự hỗ trợ của máy chủ DHCP là một trong những đặc điểm hoàn toàn mới và rất hữu ích trong thế hệ địa chỉ IPv6, góp phần tăng tính hiệu quả, linh động. Thời gian đầu của địa chỉ IPv4, host luôn được cấu hình khởi tạo bằng tay bởi người quản trị. Sau đó, máy chủ DHCP được sử dụng để có thể cấp phát địa chỉ IP và thông số cho host khi nó kết nối vào mạng. Địa chỉ IPv6 tiến thêm một bước xa hơn, đó là cho phép một IPv6 node có thể tự mình cấu hình địa chỉ và các tham số hoạt động mà không cần sự hỗ trợ của một máy chủ DHCP nào.

Host cấu hình địa chỉ tự động dựa trên một số đặt tính mới của địa chỉ IPv6, bao gồm: địa chỉ link-local, multicast, thủ tục Neighbor Discovery, khả năng tự tạo 64 bít định danh giao diện từ địa chỉ lớp link-layer.

Các bước để host tự cấu hình nên địa chỉ và các thông số hoạt động của mình như sau:

  • 1.Tạo địa chỉ link-local:

Địa chỉ link-local bắt đầu bởi 10 bít prefix FE80::/10, theo sau bởi 54 bit 0. 64 bít còn lại là định danh giao diện (interface ID)

Khi khởi động, 64 bít định danh giao diện sẽ được host tự động tạo từ địa chỉ lớp link-layer. Bạn có thể tham khảo lại chi tiết quy trình tạo Interface ID trong các mục trước. 

Trong hình vẽ trên, từ địa chỉ MAC 00-90-27-17-FC-0F, host sẽ tạo được interface ID 0290:27FF:FE17:FC0F

Từ đó tạo được địa chỉ link-local FE80::0290:27FF:FE17:FC0F

Ngoài việc tạo từ địa chỉ vật lý, 64 bít định danh giao diện còn có thể được gắn một cách ngẫu nhiên. 

  • 2.Thực hiện thuật toán kiểm tra trùng lặp địa chỉ (Duplicate Address Detection)

Dãy số định danh giao diện có thể được gắn một cách ngẫu nhiên, khiến cho có khả năng trùng hợp. Host cần kiểm tra chắc chắn địa chỉ link-local mình dự định sử dụng là duy nhất trong phạm vi đường kết nối link-local, trước khi sử dụng để tránh xung đột.

Do vậy nó thực hiện thuật toán DAD, như đã đề cập trong mục trước, dựa trên hai dạng thông diệp Neighbor Solicitation và Neighbor Advertisement.

  • 3.Gắn địa chỉ link-local

Sau khi gửi thông điệp Neighbor Solicitation, nếu host không nhận được thông điệp Neighbor Advertisement phúc đáp, có nghĩa chưa có node nào trên đường link sử dụng địa chỉ này. Khi đó nó sẽ gắn địa chỉ link-local cho mình và lấy địa chỉ này để thực hiện giao tiếp với các node khác trên mạng LAN.

  • 4.Liên hệ với router. 

Trong gói tin Router Advertisement do router quảng bá sẽ có các thông tin hướng dẫn host về cách thức cấu hình địa chỉ, về prefix địa chỉ của đường link, và các tham số khác. Do vậy, host sẽ đợi gói tin này trong thông điệp được router gửi một cách định kỳ, hoặc sẽ có gắng liên hệ với một router trên đường kết nối.

Để liên hệ với router,

Host gửi gói tin RS 

o        Địa chỉ nguồn = ::

o        Địa chỉ đích = FF02::2 (địa chỉ multicast mọi router phạm vi link)

Router phúc đáp:

 Router sẽ gửi RA phúc đáp:

o        Địa chỉ nguồn = Địa chỉ link-local của router

o        Địa chỉ đích = FF02::1 (Địa chỉ multicast mọi node phạm vi link)

o        Dữ liệu = Prefix (2001:410:213:1::/64 trong hình vẽ), và một số thông số khác.

o        Trong trường hợp đường kết nối đang sử dụng phương thức cấu hình stateful, trong quảng bá của router sẽ không có prefix và có cờ để hướng dẫn host sử dụng phương thức này.

  • 5. Cấu hình địa chỉ và xác lập các giá trị thông số hoạt động.

Từ thông tin nhận được trong quảng bá RA của router, host sẽ cấu hình địa chỉ và xác lập các thông số hoạt động.

Từ thông tin về prefix:

  • Host tạo địa chỉ IPv6 toàn cầu bằng cách gắn prefix này với 64 bít định danh giao diện. Để có thể tự động cấu hình địa chỉ, prefix địa chỉ do router quảng bá phải có độ dài /64.
  • Đồng thời host cũng thiết lập giá trị thời gian Valid Lifetime, Preferred Lifetime cho địa chỉ theo giá trị có trong option Prefix Information của gói tin RA.
  • Host đăng ký địa chỉ Multicast Solicited Node tương ứng địa chỉ unicast vừa tạo với card mạng để nhận lưu lượng của địa chỉ này.

Host xác lập các giá trị thông số hoạt động: Hop Limit, Reachable Time (thời gian mặc định host thực hiện kiểm tra tính có thể đạt được của các node lân cận), MTU..

Trong trường hợp cụ thể, như hình bên dưới, host sẽ cấu hình được địa chỉ toàn cầu IPv6:

Địa chỉ IPv6 = Network prefix+Interface ID = 2001:410:213:1::90:27FF:FE17:FC0F

6. Đánh số lại thiết bị IPv6

 

Đánh số lại mạng IPv4 là điều những nhà quản trị rất ngại. Nó ảnh hưởng tới hoạt động mạng lưới và tiêu tốn nhân lực cấu hình lại thông tin cho host, node trên mạng.

Đối với địa chỉ IPv6, dựa trên nguyên tắc cấu hình tự động, các host trên mạng có thể được đánh số lại nhờ thông báo của router đặt thời gian hết thời hạn có thể sử dụng cho một network prefix. Sau đó, router thông báo prefix mới để các host tạo lại địa chỉ IP. Trên thực tế, các host có thể duy trì sử dụng địa chỉ cũ trong một khoảng thời gian nhất định trước khi xóa bỏ hoàn toàn. 

IETF cũng thiết kế một RFC định nghĩa một quá trình đánh số lại cho router, dựa trên dạng thông điệp “Router Renumbering” của ICMPv6. Bạn có thể tham khảo chi tiết tại RFC 2894 “Router Renumbering for IPv6”.

7. Phân mảnh gói tin IPv6

Mạng, quy mô lớn hay nhỏ, bao gồm các đường kết nối vật lý khác nhau. Mỗi đường kết nối có một giá trị giới hạn về kích thước thông tin truyền tải trên đó, được gọi là MTU (Maximum Transmition Unit). Trong hoạt động của thế hệ địa chỉ IPv4, trong quá trình forward gói tin, nếu IPv4 router nhận được gói tin lớn hơn giá trị MTU của đường kết nối, router sẽ thực hiện phân mảnh gói tin (fragment). Sau quá trình truyền tải, gói tin được xây dựng lại nhờ những thông tin trong header. 

Địa chỉ IPv6 áp dụng một mô hình khác để phân mảnh gói tin. Việc phân mảnh gói tin được thực hiện tại host nguồn, nơi gửi gói tin. Mọi IPv6 router không tiến hành phân mảnh gói tin, nhờ đó tăng hiệu quả, giảm thời gian xử lý gói tin. Trong header cơ bản IPv6, các trường hỗ trợ cho việc phân mảnh và kết cấu lại gói tin của IPv4 header đã được bỏ đi.  Những thông tin trợ giúp cho việc phân mảnh và tái tạo gói tin IPv6 được để trong header mở rộng của gói tin IPv6 (Fragment header).

Giá trị MTU tối thiểu mặc định trên đường link IPv6 là 1280 byte. Router sẽ gửi cho các IPv6 host  trên đường link giá trị MTU mặc định của đường link  đó. Tuy nhiên, để đến được đích, gói tin sẽ đi qua nhiều đường kết nối có giá trị MTU khác nhau, việc phân mảnh gói tin được thực hiện tại host nguồn, không thực hiện bởi các router trên đường truyền tải. Để truyền được tới đích, gói tin cần phải có kích thước phù hợp với giá trị MTU nhỏ nhất trên toàn bộ đường truyền từ nguồn tới đích. Nhằm phục vụ cho host nguồn phân mảnh gói tin, phải có một cách thức nào đó để host nguồn quyết định giá trị MTU sử dụng khi gửi gói tin.

Trong địa chỉ IPv6, tồn tại hai khái niệm

  • LinkMTU: Giá trị MTU trên đường kết nối trực tiếp của host
  • PathMTU: Giá trị MTU nhỏ nhất trên toàn bộ đường truyền.

Host nguồn có thuật toán tìm Path MTU trên toàn bộ đường truyền gọi là Path MTU Discovery. và sẽ lưu giữ (cache) giá trị này để sử dụng trong giao tiếp. 

Path MTU Discovery được thực hiện nhờ thông điệp Packet Too Big phản hồi từ router.

Để tìm PathMTU, host nguồn gửi gói tin sử dụng giá trị MTU mặc định (link MTU) của đường kết nối. Nếu trên đường truyền, kích thước gói tin vượt quá giá trị MTU của một đường link nào đó, router của đường link phải hủy bỏ gói tin và gửi thông điệp Packet Too Big thông báo, trong gói tin có chứa giá trị MTU của đường link mà router phụ trách. Khi nhận được thông tin này, host sẽ sử dụng giá trị MTU này để gửi lại gói tin. Cứ như vậy cho đến khi gói tin tới được đích và host sẽ lưu giữ lại thông tin PathMTU để thực hiện gửi lần sau.

Xem tiếp Phần 12: http://waren.vn/chuyen-de/dac-tinh-cua-dia-chi-ipv6-chuyen-de-dao-tao-ipv6-phan-12.html